Vai trò của Công đoàn trong xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh:
Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh bằng tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc, lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho giai cấp công nhân; đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục giác ngộ giai cấp. |
Công ty TNHH Pou Sung Việt Nam trao phần thưởng cho người lao động có sáng kiến, sáng tạo. Ảnh: TẤN MÂN |
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHÍNH TRỊ, Ý THỨC GIÁC NGỘ GIAI CẤP VÀ BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ
Trước hết, cần nâng cao trình độ chính trị, ý thức giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị, ý thức công dân, tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa; xây dựng cho giai cấp công nhân ý chí quyết tâm vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, có quyết tâm làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình, góp phần làm giàu cho xã hội, đất nước. Làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động tiến hành “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Tận dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức sinh hoạt của các đoàn thể, các tổ chức xã hội và các hoạt động văn hoá để tuyên truyền, giáo dục công nhân. Đưa vào chương trình giảng dạy của các trường phổ thông và dạy nghề nội dung giáo dục về công nhân.
Cần phải đổi mới cả về nội dung, hình thức, phương pháp và biện pháp giáo dục dưới ánh sáng của quan điểm đổi mới và hiện đại hoá. Cần làm cho công nhân nhận rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quyết định đúng đắn, là một chủ trương chiến lược lâu dài, nhất quán nhằm khai thác nguồn tiềm năng to lớn trong việc giải quyết các vấn đề về việc làm, thu nhập và đời sống cho người lao động (NLĐ), phát triển kinh tế đất nước, giải phóng triệt để sức sản xuất, khai thác tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong tình hình hiện nay. Vì vậy, công nhân và NLĐ cần phải ủng hộ chủ trương này của Đảng và Nhà nước, góp phần tích cực vào việc phát triển các thành phần kinh tế vì lợi ích của bản thân, gia đình và xã hội. Trong khu vực kinh tế nhà nước, công tác giáo dục công nhân phải nhằm mục đích: bồi dưỡng tinh thần làm chủ, nhiệt tình lao động, kích thích và khơi dậy được tính năng động, sáng tạo, sự quan tâm đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh cho đội ngũ người thợ. Trên cơ sở ấy góp phần làm cho kinh tế nhà nước vươn lên, đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh, thực hiện vai trò chủ đạo, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác. Cần làm cho người công nhân hiểu rõ cuộc sống của bản thân, gia đình và sự hưng thịnh của đất nước, trước hết phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, đơn vị. Trong cơ chế thị trường, người công nhân làm chủ sức lao động của mình, tự do chọn việc làm và nơi làm việc; đồng thời cũng chịu sự lựa chọn của người sử dụng lao động (cả trong khu vực nhà nước và ngoài nhà nước). Ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước, cần làm cho công nhân và NLĐ hiểu được: làm việc ở các thành phần kinh tế ngoài nhà nước cũng có giá trị như ở khu vực kinh tế nhà nước. Sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước góp phần vào sự phát triển nền kinh tế đất nước. Vì vậy, một mặt, công nhân cần tích cực tham gia vào việc phát triển các thành phần kinh tế này; lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, nhằm mang lại lợi ích cho bản thân, gia đình, góp phần vào sự phát triển của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của giới chủ. Mặt khác, nêu cao vai trò của người làm chủ xã hội, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn và báo cáo với Đảng và Nhà nước những việc làm sai trái của các chủ sở hữu, làm cho các thành phần kinh tế này chấp hành đúng chính sách, chế độ, quy định của Đảng và Nhà nước, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. |
LĐLĐ tỉnh Bắc Giang phối hợp với các cơ quan chức năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho công nhân lao động. Ảnh: BÁO BẮC GIANG |
Trong tình hình hiện nay, cần thường xuyên tăng cường giáo dục giác ngộ giai cấp, nâng cao ý thức tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức cảnh giác cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Kiên quyết không chấp nhận đa nguyên, đa đảng đối lập. Ngăn ngừa ảnh hưởng của tư tưởng tiểu tư sản, lối sống thực dụng, tư tưởng phong kiến, nhất là ở các đơn vị sản xuất khu vực kinh tế ngoài nhà nước.
Trong tình hình hiện nay, cần coi trọng giáo dục lập trường, quan điểm giai cấp, nhưng không phải bằng những bài lý luận chung chung, mà phải trên cơ sở thông tin, giáo dục, hướng dẫn khoa học để xây dựng niềm tin khoa học vững chắc cho công nhân. Cần giúp cho công nhân hiểu sự thật về chủ nghĩa tư bản hiện đại, cả mặt phải và trái của nó. Cách tuyên truyền theo kiểu “bôi đen” hoàn toàn, phủ định sạch trơn, hoặc “tô hồng”, ca ngợi chủ nghĩa tư bản hiện đại hết lời, đều không khoa học, phản tác dụng trong công tác tuyên truyền, giáo dục. Xây dựng niềm tin khoa học cho công nhân về tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở giáo dục bằng những nội dung, hình thức, phương pháp khoa học, bằng thực tế trong nước và thế giới. Trang bị cho công nhân phương pháp xem xét khách quan, toàn diện, khoa học. Để làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục công nhân trong điều kiện hiện nay, phải bồi dưỡng, đào tạo được một đội ngũ những người làm công tác giáo dục có tài năng, hùng biện, hiểu biết sâu rộng về lý luận và thực tiễn, về công nhân và phong trào công nhân. Nhưng điều quan trọng hơn, có ý nghĩa quyết định là phải bằng những việc làm thực tế của Đảng và Nhà nước mang lại quyền lợi thiết thực về vật chất và tinh thần cho công nhân, chứng tỏ trên thực tế tính ưu của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam về mọi phương diện trong việc chăm lo đến cuộc sống hằng ngày của công nhân và quần chúng lao động. Công tác giáo dục sẽ không có hiệu quả khi mà cuộc sống hằng ngày của quần chúng lao động vẫn còn nhiều khó khăn, tiêu cực; tham nhũng hoành hành; bất công xã hội ngày càng nhiều; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội không được bảo đảm, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, thoái hoá, biến chất, sống xa dân, hư hỏng về đạo đức, lối sống, … Phải tiến hành giáo dục bằng tổng hợp các biện pháp: Kinh tế, chính trị, pháp luật, hành chính, tư tưởng… với những hình thức phong phú, sinh động, tế nhị, có nghệ thuật, khoa học, phù hợp với từng đối tượng công nhân trong mỗi loại hình doanh nghiệp trong các thành phần, đơn vị kinh tế. Cần đặc biệt coi trọng hình thức giáo dục bằng các loại hình văn học – nghệ thuật, các hoạt động văn hoá, xã hội, các ấn phẩm văn hóa có tác dụng giáo dục. Muốn vậy, phải nâng cao kiến thức văn hoá cho công nhân và tạo ra những điều kiện thuận lợi về vật chất, thời gian,… để công nhân có thể thưởng thức các tác phẩm văn học – nghệ thuật, các ấn phẩm văn hóa có giá trị, có tác dụng giáo dục sâu sắc, để họ có thể tham gia các hoạt động văn hoá, nghệ thuật. Thông qua thực tiễn lao động sản xuất kinh doanh, tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần và hoạt động của các tổ chức, đoàn thể xã hội mà giáo dục, rèn luyện đội ngũ công nhân. Tổ chức, quản lý lao động một cách khoa học, chặt chẽ, bảo đảm đủ việc làm, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân sẽ có tác dụng rất lớn đến việc giáo dục, xây dựng giai cấp công nhân. Công tác giáo dục công nhân chỉ thực sự có hiệu quả khi biết tôn trọng và bằng những việc làm thực tế thể hiện sự tôn trọng quyền, lợi ích, nhân cách của người công nhân với tư cách là một con người và với vị trí xã hội của họ: là thành viên của một giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh đạo cách mạng. Để công tác giáo dục có hiệu quả, cần xây dựng nội dung, giáo trình bồi dưỡng sát hợp với từng đối tượng công nhân. Đối với những công nhân có trình độ học vấn cao, công nhân – trí thức, phải nâng cao trình độ lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho họ với chương trình và hình thức học tập thích hợp. Với những người giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong các doanh nghiệp, công ty, phải quan tâm việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, lý luận cơ bản, năng lực quản lý, tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo. |
Tổng công ty Khánh Việt đào tạo nghề cho công nhân lao động. Ảnh: MINH TUẤN |
CHÚ TRỌNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ, TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN, TRÍ THỨC HÓA CÔNG NHÂNTrong cơ chế mới và trong điều kiện đổi mới thiết bị, đưa quy trình công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại vào sản xuất, cũng như từ yêu cầu, đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng thì công tác đào tạo công nhân cần được hết sức coi trọng. Cần phải đặc biệt coi trọng xây dựng và trọng dụng một đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi và các nhà khoa học, kỹ thuật có trình độ cao. Đi đôi với đào tạo mới, cần chú trọng đào tạo lại để có những công nhân, cán bộ có đủ điều kiện tiếp cận với cơ chế thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế toàn diện, ngày càng sâu rộng, đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ, thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ của các cơ sở sản xuất, hiện đại hoá công nghệ truyền thống. Đó là đòi hỏi bức thiết, khách quan của nền kinh tế nước ta hiện nay. Trình độ công nghệ, thiết bị hiện nay của nước ta, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập quốc tế toàn diện, sâu, rộng, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong sản xuất kinh doanh, liên doanh đòi hỏi phải coi trọng việc đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ học vấn, năng lực trí tuệ, tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ, văn hoá, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, cho công nhân. Để từ đó họ nhanh chóng có điều kiện tiếp thu, làm chủ công nghệ mới, có cơ hội tìm được việc làm, để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đủ sức cạnh tranh với thị trường trong và ngoài nước. Trong bối cảnh thế giới đã bước vào thời kỳ khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, vấn đề này là một đòi hỏi khách quan, cấp thiết. Đầu tư vào công tác đào tạo công nhân là một hướng đầu tư vào chiều sâu cơ bản và có hiệu quả nhất, cả về kinh tế, xã hội, chính trị. Yêu cầu của nền sản xuất hiện đại đòi hỏi phải có một đội ngũ công nhân vững vàng cả về lý thuyết lẫn tay nghề, nắm vững công nghệ hiện đại. Công tác đào tạo nhân lực phải được quan tâm thường xuyên bằng những chính sách cụ thể, thiết thực, có hiệu quả, cụ thể là: Công nhân và con em công nhân cần được xem là đối tượng ưu tiên để tiến hành phổ cập giáo dục. Có thể và cần phổ cập giáo dục phổ thông trung học cho công nhân trẻ và con em công nhân. Khuyến khích và tạo điều kiện cho công nhân tham gia học ở cấp học giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Có chính sách hợp lý để tuyển chọn được một bộ phận thanh niên ưu tú, nhất là con em công nhân nhiều đời vào các trường dạy nghề. Chỉ có như vậy, trong tương lai chúng ta mới có một đội ngũ công nhân giỏi. Và, từ trong số ấy mới tuyển chọn và đào tạo được những cán bộ quản lý, lãnh đạo giỏi xuất thân từ công nhân. |
Học viên theo học kỹ năng nghề cắt gọt kim loại. Ảnh: TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI |
Hệ thống chính sách, công tác hướng nghiệp ở phổ thông, các hoạt động văn hoá và nghệ thuật phải giúp cho thanh niên học sinh định hướng đúng đắn và hiểu rõ được ý nghĩa trọng đại của việc gia nhập đội ngũ công nhân.
Ban hành chính sách huy động các cơ sở sản xuất thuộc tất cả các thành phần kinh tế đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đầu tư vào công tác đào tạo và bồi dưỡng công nhân – khâu quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất. Phải xã hội hoá công tác đào tạo, nâng cao trình độ học vấn và tay nghề cho công nhân, trí thức hoá đội ngũ công nhân. Các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải dành ngân sách và đóng góp vào quỹ dạy nghề, đào tạo công nhân; tổ chức tốt việc bổ túc văn hoá và đào tạo nghề trong phạm vi doanh nghiệp, công ty, cơ sở sản xuất… Đổi mới chương trình và hiện đại hoá công tác đào tạo của các trường và các trung tâm dạy nghề. Nâng cao chất lượng đào tạo, chuẩn bị cho học sinh trở thành những NLĐ sáng tạo ngay từ cấp học phổ thông. Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, trình độ ngoại ngữ và khả năng tiếp thị; khuyến khích những công nhân giỏi một nghề, biết nhiều nghề, thợ bậc cao, thợ giỏi, bằng những chế độ, quy định, chính sách cụ thể về vật chất và tinh thần. Nhanh chóng quy hoạch lại các trường dạy nghề, đào tạo công nhân theo chiến lược kinh tế – xã hội và cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý mới. Kế hoạch hoá dạy nghề một cách tổng hợp, đồng bộ nhằm thực hiện sự cân đối trong nội bộ hệ thống giáo dục cũng như giữa hệ thống đào tạo và hệ thống kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng. Coi trọng và quan tâm hơn nữa đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho các trường dạy nghề, chăm lo đời sống của cán bộ, giáo viên và học sinh trong các trường dạy nghề. Nhanh chóng cải cách nội dung, phương pháp đào tạo theo hướng công nhân giỏi một nghề, biết thêm một vài nghề khác, lý luận gắn với thực hành, tạo điều kiện để học sinh làm quen với sản xuất công nghiệp, với đời sống công nhân, với các lĩnh vực kinh tế – xã hội của đất nước. Mạnh dạn và khẩn trương đào tạo đội ngũ giám đốc trẻ, giỏi nghề, năng động, sáng tạo xuất thân từ công nhân, hoặc đã trực tiếp là công nhân và định kỳ nâng cao nghiệp vụ sản xuất, kinh doanh, tay nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế, đi đôi với việc đào tạo đội ngũ thợ trẻ, lành nghề (bằng con đường đào tạo trong nước và gửi đi học ở nước ngoài) vừa trẻ hoá, vừa nâng cao tri thức và khả năng sáng tạo cho đội ngũ công nhân; tổ chức tốt việc đào tạo lại khi chuyển đổi công nghệ mới. Chú trọng công tác đào tạo và phát triển lực lượng công nhân trong các dân tộc thiểu số, coi đó là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Chú trọng cả số lượng và chất lượng. Kết hợp đúng đắn, có hiệu quả chính sách kinh tế với chính sách xã hội và chính sách dân tộc. Giải pháp nâng cao trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp chuyên môn, trí thức hoá đội ngũ công nhân phải được tiến hành với tốc độ nhanh hơn. Bản thân giai cấp công nhân phải vươn lên làm chủ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, tự mình trí thức hoá mình. Giải pháp trí thức hoá này không chỉ quan trọng đối với đội ngũ công nhân hiện có; mà còn quan trọng hơn rất nhiều đối với những người sắp gia nhập hàng ngũ công nhân trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong điều kiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, khoa học, kỹ thuật và công nghệ phát triển mạnh mẽ và thay đổi từng ngày thì việc trang bị tri thức và kỹ năng, việc đào tạo nghề kiểu cũ theo quy trình của những năm cuối thế kỷ XX tỏ ra không còn phù hợp. Một khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ thay đổi nhanh thì cũng đòi hỏi người công nhân phải biết thay đổi và biết thích nghi nhanh. Khả năng thích nghi nhanh là đòi hỏi bắt buộc đối với công nhân trong điều kiện nền sản xuất hiện đại liên tục thay đổi quy trình công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Nếu người công nhân không có tri thức vững vàng, không có phương pháp tư duy mềm dẻo thì sẽ là một trở ngại rất lớn trong việc tiếp cận các công nghệ mới, hiện đại, khó thích ứng với sự thay đổi nhanh của nghề nghiệp và yêu cầu của công việc mới, của nghề nghiệp mới. Để trí thức hoá đội ngũ công nhân thì phải bắt đầu từ sự thay đổi mạnh mẽ trong hệ thống giáo dục phổ thông và đào tạo nghề để từ đó làm cơ sở cho việc đào tạo bậc đại học chuyên ngành và lao động chất lượng cao theo yêu cầu hiện đại phù hợp với những đòi hỏi của nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức không chỉ đòi hỏi người công nhân phải làm chủ công nghệ mới, không chỉ biết nắm vững công nghệ đã có hay đã chín muồi, mà còn đòi hỏi người công nhân phải biết sáng tạo ra công nghệ mới, đề xuất cái mới. Vai trò của giai cấp công nhân trí thức hoá không những không suy giảm mà trái lại còn tăng lên cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức. Với trình độ tri thức ngày càng cao thì sự giác ngộ giai cấp, ý thức về vị trí, vai trò, khả năng và sức mạnh của giai cấp công nhân cũng như tính tổ chức, kỷ luật của công nhân trí thức sẽ được nâng lên tương xứng. Để thực hiện được sứ mạng là giai cấp lãnh đạo xã hội thì giai cấp công nhân phải tự trang bị cho đội ngũ của mình cả sự giác ngộ giai cấp lẫn ý thức chính trị, tính tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, sớm đưa tất cả các công nhân vào các tổ chức Công đoàn; làm tốt công tác phát triển đảng trong công nhân, qua đó hướng dẫn, chỉ đạo, tiến hành các biện pháp giáo dục tư tưởng; tiến hành các biện pháp tạo việc làm, nâng cao mọi mặt đời sống; hết sức quan tâm nâng cao học vấn, trình độ nghề nghiệp; đẩy nhanh quá trình trí thức hoá công nhân, phục vụ tốt nhất cho việc từng bước đưa đất nước vào nền kinh tế tri thức nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. |
Công đoàn Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội kết nạp đoàn viên. Ảnh: CĐ |
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH CHÍNH ĐÁNG, HỢP PHÁP CỦA CÔNG NHÂN
Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân; khẩn trương giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần – văn hoá, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân, NLĐ; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân.
Đảng, Nhà nước cần tập trung từng bước giải quyết những vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với giai cấp công nhân thông qua việc hoàn thiện các chính sách xã hội, quan tâm đúng mức, giải quyết thỏa đáng các lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân, bảo đảm hài hoà lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần – văn hoá, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích doanh nghiệp và lợi ích toàn xã hội. Chú trọng kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các chính sách bảo đảm an sinh xã hội với các chính sách khuyến khích xã hội để hai chính sách này tác động, bổ sung cho nhau tạo động lực mạnh mẽ khuyến khích mọi người, mọi tập thể công nhân trong các thành phần kinh tế phát triển, từng bước phục hồi truyền thống gia đình công nhân nhiều đời và đào tạo thế hệ công nhân hiện đại. Xây dựng chiến lược quốc gia về xây dựng, phát triển giai cấp công nhân gắn với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội; giải quyết hài hoà và có hiệu quả các mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá và chăm lo đời sống, nâng cao thể chất người Việt Nam nói chung, công nhân nói riêng. |
Thiết chế Công đoàn đi vào hoạt động đã góp phần ổn định đời sống NLĐ. Ảnh: THC |
Trước mắt cần tập trung lãnh đạo xây dựng hoàn thiện một số chính sách cụ thể sau đây:
– Tập trung giải quyết một cách cơ bản, có hiệu quả vấn đề việc làm, nâng cao đời sống, quyền dân chủ, làm chủ của công nhân và thực hiện công bằng xã hội, thực hiện tốt các chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động, cải thiện điều kiện làm việc, ăn, ở, vui chơi, giải trí và tăng cường chăm sóc sức khoẻ cho công nhân. Bảo đảm việc làm đầy đủ cho công nhân là một trong những mục tiêu hàng đầu của các giải pháp kinh tế cả trước mắt và lâu dài. Nó vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề nhân văn – xã hội, đồng thời còn là vấn đề chính trị. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, cải cách, hoàn thiện chính sách tiền lương, nâng lương tối thiểu, xây dựng thang bảng lương và công tác tổ chức tiền lương trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bảo đảm lương thực tế của công nhân đủ trang trải những nhu cầu thiết yếu, cơ bản của người công nhân và gia đình họ để tái sản xuất sức lao động, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và phân phối theo sự đóng góp của mỗi người, để nâng cao đời sống cho công nhân và gia đình họ. – Lãnh đạo hoàn thiện chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện nghiêm chính sách chăm lo, cải thiện điều kiện lao động cho công nhân, có biện pháp phòng, chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, nhất là đối với nữ công nhân, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra an toàn lao động, bảo vệ môi trường sinh thái trong lao động công nghiệp. Giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo hộ lao động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, chăm sóc sức khỏe công nhân, nhất là đối với những công nhân làm việc nặng nhọc, trong môi trường độc hại. Thực hiện nghiêm chỉnh quy định về sử dụng nữ công nhân. Phát triển và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh ở các cơ sở y tế, ngành, nghề, cơ sở sản xuất, doanh nghiệp… Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế áp dụng đối với tất cả công nhân trong các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. – Tiếp tục hoàn thiện chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để số đông công nhân có cổ phần ở doanh nghiệp và có điều kiện, cơ hội phát huy dân chủ thực sự ở cơ quan, doanh nghiệp, bảo đảm quyền làm chủ trên thực tế của công nhân. – Xây dựng, hoàn thiện chính sách nhà ở, phúc lợi xã hội và chính sách khuyến khích đẩy mạnh đầu tư phát triển nhà ở cho công nhân, theo hướng: Nhà nước miễn giảm thuế đất cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, các doanh nghiệp đầu tư xây nhà ở cho công nhân được phép tính vào giá trị đầu tư. Nhà nước và doanh nghiệp cùng góp vốn, huy động thêm vốn của công nhân để xây dựng nhà bán trả góp cho công nhân hoặc cho công nhân thuê. Đồng thời, nghiên cứu chính sách hỗ trợ về nhà ở cho những gia đình công nhân nghèo, chính sách xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng các thiết chế văn hoá ở các khu tập thể gia đình công nhân, bảo đảm cho công nhân có nơi ở ổn định, an toàn, có điều kiện thuận lợi khám chữa bệnh, có nhà trẻ, mẫu giáo, trường học thuận lợi cho con em công nhân. Triển khai thực hiện chính sách xã hội hoá quá trình xây dựng và hoàn thiện môi trường văn hoá – xã hội, xây dựng môi trường sống lành mạnh và đời sống văn hoá trong công nhân. – Bảo đảm quyền lợi của công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Quan tâm chăm sóc và thực hiện đúng chính sách đối với những công nhân đã về hưu, nghỉ mất sức. – Tổ chức thực hiện tốt pháp luật lao động. Đổi mới, hoàn thiện nội dung, phương thức, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lao động trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách, pháp luật. Kiên quyết xử lý nghiêm những vi phạm chính sách, pháp luật, nhất là chính sách, pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân, lập lại kỷ cương pháp luật, xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa, ổn định. Khẩn trương xây dựng, ban hành và thực hiện tốt Luật Kinh tế, Luật Cạnh tranh, Luật Phá sản, Luật về sức khỏe, Luật Giám đốc,… Thực hiện trong cuộc sống quyền làm chủ thực sự của công nhân, thực hiện dân chủ, công khai, công bằng xã hội; đấu tranh khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy Đảng và Nhà nước, trong các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, trọng tâm là các doanh nghiệp thuộc khu vực Nhà nước quản lý. Dân chủ và công bằng xã hội là bản chất ưu việt của Chủ nghĩa xã hội, là động lực tinh thần khuyến khích mọi NLĐ sáng tạo xây dựng cuộc sống mới. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Có đấu tranh thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi thì mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với giai cấp công nhân mới được củng cố, tăng cường, củng cố và nâng cao lòng tin của giai cấp công nhân với Đảng và Nhà nước, bảo đảm cho công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội đi đến thắng lợi. Để phát huy quyền làm chủ thực sự của công nhân, cần phải: Thứ nhất, quan tâm bồi dưỡng toàn diện cho đội ngữ công nhân để họ có kiến thức, thói quen và năng lực làm chủ. Do vậy, phải tạo điều kiện để nâng cao trình độ cho công nhân một cách toàn diện: trình độ chính trị, nghề nghiệp, văn hoá, khoa học – kỹ thuật, kiến thức quản lý kinh tế, tổ chức sản xuất, hiểu biết về kinh doanh. Thứ hai, phải tạo ra những điều kiện và xây dựng cơ chế hữu hiệu để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của công nhân trong từng loại hình doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, trong các thành phần kinh tế và trên phạm vi toàn xã hội. Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật của công nhân. Cải tiến chế độ quản lý doanh nghiệp, có cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng và nhân cách của công nhân theo pháp luật, theo hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể. Có cơ chế và quy định hữu hiệu để thực hiện trên thực tế quyền kiểm tra, giám sát của công nhân và Công đoàn về tình hình thu chi tài chính, phân phối lương, phúc lợi, thưởng… của các doanh nghiệp để ngăn chặn, khắc phục tệ lãng phí, tham nhũng. Đổi mới và dân chủ hoá công tác thông tin cũng như quy trình ra và tổ chức thực hiện các quyết định, chủ trương, chính sách, các chương trình kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước. Sao cho công nhân có được những thông tin cần thiết để có thể thực sự tham gia vào các quá trình xây dựng và thực hiện các quyết định, chủ trương, chính sách ấy, phản ánh được trí tuệ của toàn Đảng và giai cấp công nhân. Họ không chỉ là người trực tiếp góp phần xây dựng lên, là người thực hiện mà còn là người giám sát, kiểm tra quá trình tổ chức thực hiện. Chỉ trên cơ sở đó, các quyết định, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mới phản ánh được một cách sâu sắc nguyện vọng và lợi ích của giai cấp công nhân. Và do đó, làm khơi dậy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần làm chủ của giai cấp công nhân, tăng cường vai trò của họ trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật và các chương trình kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước. Cần khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, đấu tranh ngăn chặn tệ quan liêu và những hành vi xâm phạm quyền làm chủ của công nhân, bóp nghẹt dân chủ, không thể có dân chủ, nếu không có đấu tranh ngăn chặn tình trạng này. Thứ ba, công nhân thực hiện quyền làm chủ bằng Nhà nước và các đoàn thể đại diện cho mình, đồng thời làm chủ một cách trực tiếp, thường xuyên ở cơ sở, vì vậy cần phải: – Nghiên cứu ban hành các quy chế phát huy dân chủ, bảo đảm người công nhân thực sự tham gia vào việc lựa chọn những đại biểu ưu tú nhất, xứng đáng nhất đại diện cho họ trong các cơ quan dân cử. Công nhân có thể thường xuyên giám sát được hoạt động của những người đại diện cho mình và bãi miễn họ bất cứ lúc nào, nếu những đại biểu ấy không còn xứng đáng đại biểu cho giai cấp công nhân. – Ở các đơn vị cơ sở, phải bảo đảm quyền làm chủ của công nhân theo luật định, bổ sung các cơ chế, quy định cụ thể để bảo đảm quyền làm chủ thực sự của công nhân và quyền của công đoàn trong sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, phân phối lương, thưởng, phúc lợi xã hội, kiểm kê và kiểm soát mọi hoạt động của doanh nghiệp theo đúng pháp luật và các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân, lao động. Phát huy dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, chống tự do vô chính phủ, dân chủ quá trớn. – Có kế hoạch bồi dưỡng, tăng cường giáo dục cho cán bộ Đảng, chính quyền và các đoàn thể công nhân nhận thức sâu sắc về quan điểm, lập trường giai cấp công nhân, quan điểm quần chúng. – Phát huy đầy đủ vai trò và quyền lực của công đoàn, của đại hội công nhân, viên chức và hội đồng quản trị doanh nghiệp; bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý, thật sự giao tài sản của Nhà nước cho tập thể công nhân quản lý, sử dụng và giao quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp. Đồng thời, từ thực tiễn, nghiên cứu, xây dựng cơ chế mới; sáng tạo các hình thức quản lý khác nhằm đạt hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao, bảo đảm quyền làm chủ thực sự của công nhân. – Chăm lo và đáp ứng những lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân. Đằng sau bất kỳ biện pháp nào cũng đều phải thấy được người công nhân, với tất cả những nhu cầu, lợi ích của họ về vật chất và tinh thần. |
Tổng công ty Hàng hải Việt Nam tổ chức Hội nghị NLĐ. Ảnh: TCT |
XÂY DỰNG TỔ CHỨC ĐẢNG, CÔNG ĐOÀN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ TRONG DOANH NGHIỆP VÀ CƠ SỞ SẢN XUẤTXây dựng tổ chức Đảng, Công đoàn và các đoàn thể trong doanh nghiệp và cơ sở sản xuất vững mạnh, hoạt động có hiệu quả; đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của công đoàn, phát huy mạnh mẽ vai trò của tổ chức Công đoàn xây dựng giai cấp công nhân. Chú trọng công tác vận động thành lập và nâng cao chất lượng tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, quan tâm bồi dưỡng phát triển Đảng trong công nhân, phấn đấu đến hết năm 2025 tất cả các doanh nghiệp có quy mô lớn trong mọi thành phần kinh tế đều thành lập được tổ chức cơ sở đảng, tăng tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân. Đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng, thu hút, động viên ngày càng đông đảo công nhân trong các thành phần kinh tế gia nhập, tự giác tham gia hoạt động công đoàn và các tổ chức quần chúng trong doanh nghiệp. Phấn đấu đến hết năm 2025, tất cả các doanh nghiệp có đủ điều kiện thành lập Công đoàn đều thành lập Công đoàn và tăng tỉ lệ công nhân gia nhập Công đoàn. Công đoàn cần đổi mới mạnh mẽ, căn bản, toàn diện nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh hoạt động về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức, lao động để xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội làm mục tiêu hoạt động. Có cơ chế, chính sách động viên về vật chất, khuyến khích về tinh thần đối với đội ngũ cán bộ đảng, đoàn thể ở các doanh nghiệp, nhất là cán bộ đảng, đoàn thể ở doanh nghiệp ngoài nhà nước. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị, nhiệt tình và tâm huyết với công tác đảng, đoàn thể cho đội ngũ cán bộ ở doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức Đảng, Công đoàn và các đoàn thể quần chúng góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh, thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn mới của cách mạng. Xây dựng giai cấp công nhân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó Công đoàn – tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của công nhân, lao động – có trọng trách lớn. Làm cho công đoàn thực sự là tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp của công nhân và những NLĐ; là trường học công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đối với giai cấp công nhân. Công đoàn phải đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng và tăng cường các hoạt động xã hội làm cho hoạt động của công đoàn sát với yêu cầu, trình độ, tâm lý của từng loại đối tượng công nhân. Phải đặc biệt coi trọng phát huy vai trò, chức năng của công đoàn ở các cơ sở công nghiệp, đặc biệt là các đơn vị sản xuất ngoài nhà nước. Trong tình hình mới đòi hỏi Công đoàn phải đổi mới căn bản, toàn diện cả nội dung, phương thức hoạt động, cả mô hình tổ chức và cán bộ mới có thể làm tròn các chức năng là người đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng và quyền làm chủ của công nhân, NLĐ; tham gia quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước; tổ chức giáo dục và là trường học xã hội chủ nghĩa của đoàn viên, công nhân và NLĐ thuộc các thành phần kinh tế và trong cơ chế thị trường. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn phù hợp với biến đổi cơ cấu lao động, nhu cầu của công nhân và yêu cầu của hội nhập quốc tế; lấy nhu cầu quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân và tập thể công nhân làm cơ sở cho hoạt động. Công đoàn phải nắm vững chức năng, đổi mới nội dung, hình thức, phương thức hoạt động cho phù hợp với các loại hình, đơn vị kinh tế; với mọi loại hình sở hữu và đặc điểm, trình độ của mỗi đối tượng nhằm tập hợp đông đảo công nhân, lao động trong các thành phần kinh tế dưới những hình thức đa dạng, theo ngành nghề, trên cơ sở đó mà vận động công nhân, NLĐ nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển các thành phần kinh tế. Công đoàn tham gia vận động, phát triển các thành phần kinh tế đa dạng để có nhiều việc làm, thu nhập chính đáng cho công nhân. Tham gia vào việc soạn thảo, xây dựng, hoàn chỉnh và đồng bộ các chính sách đối với giai cấp công nhân trong loại hình sở hữu các các thành phần, đơn vị kinh tế. Công đoàn cần có nhiều hình thức tìm kiếm, giới thiệu việc làm, hướng dẫn công nhân tự tìm kiếm việc làm. Công đoàn chăm lo, củng cố, giữ gìn và góp phần phát triển lực lượng công nhân lành nghề trong các thành phần kinh tế. Tham gia với chủ doanh nghiệp và các cơ quan hữu quan trong việc tuyển chọn, đào tạo một đội ngũ công nhân trẻ, xuất thân từ thành phần công nhân. Chăm lo giáo dục, rèn luyện, khai thác, phát huy tiềm năng và bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đội ngũ công nhân trẻ, nữ công nhân. Công đoàn có trách nhiệm cùng với Nhà nước, các cơ quan và người quản lý hữu quan chăm lo công tác bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường để thiết thực bảo vệ cuộc sống của công nhân trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần. Cùng với các cơ quan Nhà nước thực hiện tốt cơ chế làm chủ, thực hành dân chủ, chống tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội làm trong sạch đội ngũ công nhân. Vận động công nhân thi hành Luật Công đoàn của công nhân, NLĐ, người quản lý và các cơ quan nhà nước. Công đoàn coi trọng tham gia củng cố, xây dựng các cơ sở kinh tế nhà nước, góp phần khắc phục yếu kém của nó để kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, từ đó mà nâng cao vai trò nòng cốt của đội ngũ công nhân khu vực kinh tế nhà nước. Công đoàn phải là nhân tố tích cực trong việc xây dựng khối liên minh công – nông – trí thức. Công đoàn phải là cầu nối giữa Đảng với giai cấp công nhân, là chỗ dựa về tổ chức để phát triển ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng công nhân, giới thiệu những công nhân ưu tú vào Đảng. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với Công đoàn và ngược lại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, Công đoàn phải góp phần tích cực và đóng vai trò chủ đạo trong việc định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức đại diện của NLĐ tại doanh nghiệp. Tổ chức bộ máy của công đoàn phải gọn nhẹ, hoạt động đúng với tính chất quần chúng, khắc phục bệnh quan liêu, hành chính hoá, nhà nước hoá trong công tác công đoàn. Phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của công đoàn, phát huy vai trò chủ động của các công đoàn cơ sở làm cho công đoàn gần gũi, gắn bó với công nhân, lôi cuốn được đông đảo công nhân vào các hoạt động của công đoàn. Phải xây dựng và phát triển tổ chức Công đoàn trong các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, thực hiện tốt chức năng của công đoàn trong các thành phần kinh tế, các loại hình sở hữu. Phải đào tạo được một đội ngũ cán bộ công đoàn có năng lực và phẩm chất tốt đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ mới. Cán bộ công đoàn phải là người trưởng thành từ công nhân, từ phong trào công đoàn, am hiểu, gắn bó và gần gũi công nhân, giữ vững và phát huy được bản chất cách mạng của giai cấp công nhân; nắm vững pháp luật và chính sách, có năng lực và bản lĩnh đại diện cho công nhân; nắm vững và biết vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong công tác công đoàn; không bị những yếu tố tiêu cực của cơ chế thị trường làm cho biến chất trở thành tổ chức phường hội. Người cán bộ công đoàn phải biết động viên, tổ chức công nhân hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật và công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, đạt hiệu quả kinh doanh lớn nhất tạo ra nhiều sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Thực hiện được những điều nói trên, Công đoàn sẽ góp phần thiết thực và đóng vai trò lớn trong công tác xây dựng đội ngũ công nhân Việt Nam, làm cho giai cấp công nhân Việt Nam thực sự thể hiện được vai trò của nó trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của toàn xã hội trong xây dựng giai cấp công nhân: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Không thể xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh và nêu cao vai trò của nó nếu không tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc, là vấn đề có ý nghĩa quyết định để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh, thực hiện được vai trò, sứ mệnh lịch sử của nó trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh chính là tạo tiền đề để xây dựng Đảng vững mạnh. Đảng phải coi trọng công tác lãnh đạo phong trào công nhân và Công đoàn; thường xuyên chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt; đề ra chiến lược, chính sách toàn diện xây dựng giai cấp công nhân. Đường lối, chính sách của Đảng phải là đường lối chính trị của giai cấp công nhân, thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân. Cần thể hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong đường lối chính trị, đường lối tổ chức và công tác cán bộ. Quán triệt tư tưởng, lập trường giai cấp công nhân trong bộ máy nhà nước và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Chú ý phát triển Đảng, tuyển chọn cán bộ trong công nhân, tăng tỷ lệ công nhân trong bộ máy lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng. Xây dựng Đảng vững mạnh, thường xuyên củng cố mối liên hệ mật thiết, sự gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với giai cấp công nhân. Khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng; kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, thoái hóa biến chất, sa đọa về phẩm chất đạo đức, đàn áp, ức hiếp quần chúng; phải thường xuyên giáo dục đảng viên về giai cấp công nhân, về lập trường quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, khẩn trương biên soạn, đổi mới nội dung giáo dục về giai cấp công nhân trong các trường Đảng. Tăng cường hơn nữa việc tổ chức nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân và Công đoàn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, phát triển vượt bậc về năng lực và trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, để mọi đường lối, chủ trương của Đảng thể hiện được ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung các nguồn lực xây dựng, phát triển giai cấp công nhân, lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh; lãnh đạo có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; lãnh đạo xử lý nghiêm minh những vi phạm chính sách, pháp luật, bảo đảm thực thi quyền lực của nhân dân, biến mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, của cả dân tộc thành hiện thực. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng giai cấp công nhân. Vai trò của giai cấp công nhân được thể hiện thông qua vai trò của Nhà nước của mình. Do đó, một mặt cần kiện toàn, xây dựng Nhà nước vững mạnh; mặt khác, Nhà nước cần tăng cường trách nhiệm của mình trong việc xây dựng giai cấp công nhân. Nhà nước ta, trong cơ cấu tổ chức cũng như trong hoạt động thực tiễn của mình cần thể hiện rõ hơn là Nhà nước của giai cấp công nhân. Các chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước cần thể hiện quan điểm, lập trường, lợi ích và quyền lợi của giai cấp công nhân. Đường lối cán bộ cần quán triệt một cách sâu sắc lập trường giai cấp công nhân. Công tác tuyển chọn, đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cần chú trọng đến những người ưu tú xuất thân từ công nhân, tăng cường tỷ lệ công nhân trong bộ máy nhà nước, sao cho “Nhà nước, tức là giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị”, phải được thể hiện bằng những việc làm thực tế. Các cơ quan nhà nước phải thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân thành cơ chế, chính sách và luật pháp. Với trách nhiệm quản lý điều hành, Nhà nước phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế với việc bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân; chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của giai cấp công nhân; bảo đảm cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chỉ đạo, kiểm tra các cấp, các doanh nghiệp triển khai thực hiện nghiêm túc Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn, thực sự tôn trọng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân và NLĐ, phát huy vai trò của Công đoàn và các tổ chức chính trị – xã hội trong việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Nghiên cứu bổ sung các quy định về trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư đối với tổ chức Công đoàn. Nhà nước cần tạo điều kiện để công nhân thật sự phát huy quyền làm chủ của mình, thực sự góp tiếng nói xứng đáng của mình trong hoạch định đường lối, chính sách và trong việc quản lý Nhà nước và xã hội, quản lý doanh nghiệp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội phải làm cho các thành viên, các tầng lớp trong xã hội nhận thức đúng về giai cấp công nhân; tăng cường mối quan hệ phối hợp với các tổ chức Công đoàn; củng cố và tăng cường khối liên minh công – nông – trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; khắc phục những nhận thức lệch lạc về giai cấp công nhân. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và tổ chức thanh niên công nhân phải được tổ chức phù hợp với hoạt động của mỗi loại hình doanh nghiệp. Tổ chức Đoàn phải giúp thanh niên làm việc và học tập tốt hơn. Tổ chức và hướng dẫn các phong trào hành động cách mạng, các loại hình vui chơi giải trí, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, động viên thanh niên công nhân chấp hành tốt kỷ luật lao động, lối sống có văn hóa và tác phong công nghiệp. Đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội và văn hóa phẩm đồi truỵ bằng các hình thức sinh hoạt cộng đồng hấp dẫn, bổ ích, có sức lôi cuốn và cảm hóa lớp trẻ. Hội Phụ nữ là một tổ chức có vị trí không thể thay thế trong đời sống chính trị – xã hội của nữ công nhân, lao động. Hội phải là một tổ chức có nghĩa vụ và trách nhiệm cao nhất bênh vực, bảo vệ lợi ích của hội viên. Trách nhiệm nâng cao nhận thức về chuyên môn, nhận thức chính trị – xã hội của nữ công nhân trước hết phải thuộc về tổ chức hội. Hội phải là một trường học giáo dục và phổ cập kiến thức về tình yêu và hôn nhân, kiến thức tổ chức cuộc sống gia đình, nuôi dạy con, nữ công gia chánh… Đặc biệt và cụ thể hơn cả phải là một tổ chức có nghĩa vụ bênh vực và bảo vệ chị em công nhân trước nạn bạo hành trong gia đình, ở nơi làm việc và sinh sống. Hội phụ nữ phải là địa chỉ tin cậy chăm lo đời sống tinh thần, vật chất của nữ công nhân, giúp đỡ họ khi gặp khó khăn, tạo cho họ những điều kiện tốt nhất để vươn lên làm tròn thiên chức của người vợ, người mẹ, NLĐ hữu ích cho xã hội. Trên đây là những biện pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh, đáp ứng vai trò của nó trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Những biện pháp đó có liên quan, tác động lẫn nhau, tạo ra sức mạnh tổng hợp. Do đó, cần phải tiến hành đồng thời các biện pháp ấy, không thể xem nhẹ một biện pháp nào. Các nhà khoa học cần tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; tư vấn, tham mưu cho Đảng và Nhà nước để có những giải pháp hữu hiệu nhằm phát triển cả về số lượng và chất lượng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới. |
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, các tổ chức chính quyền nhà nước, các đoàn thể nhân dân và toàn thể Nhân dân. |
Bài viết: Đại tá, PGS, TS Bùi Đình Bôn – Nguyên Thư ký Hội đồng lý luận Trung ương |
Deprecated: Function WP_Query được gọi với một tham số đã bị loại bỏ kể từ phiên bản 3.1.0! Hãy sử dụng
ignore_sticky_posts
thay cho caller_get_posts
(sẽ sớm bị loại bỏ) in C:\xampp\htdocs\wp-includes\functions.php on line 5737